1. Diễn đàn SEO chất lượng, rao vặt miễn phí có PA, DA cao: okmen.edu.vn | batdongsan24h.edu.vn | aiti.edu.vn | vnmu.edu.vn | dhtn.edu.vn
    Dismiss Notice
    • ĐT: 0939 713 069
    • Mail: tanbomarketing@gmail.com
    • Skype: dangtanbo.kiet
    Dismiss Notice

Các lăng tẩm ở Huế

Đơn vị tài trợ:

* Cong ty Diễn đàn SEO uy tín
* Lắp đặt Cửa Tự Động, Cổng Tự Động tại thành phố Hồ Chí Minh
* Cong ty congtudong24h.vn
* Cong ty cuabenhvien.com.vn
* Cong ty cuatudong.co
* Cong ty cuatudong365.com
* Cong ty congtudong365.com
* Cong ty baophucdoor.com
* Cong ty Baophucautodoor.com

Thảo luận trong 'Địa Điểm Du Lịch' bắt đầu bởi tuyenhuynhvan, 10/1/17.

  1. tuyenhuynhvan
    Offline

    tuyenhuynhvan admin

    (Tài trợ: https://baophuc.vn ) - Có thể nói rằng không chỉ bề dày lịch sử của mảnh đất thần kinh (kinh thành Huế), những lăng tẩm là một phần quan trọng và độc đáo tạo nên di sản văn hóa cố đô Huế. Cùng với những chùa chiền và các cảnh đẹp tự nhiên, các lăng tẩm đã tạo thành các địa điểm du lịch ở Huế nức tiếng. Bước chân đến xứ Huế, hiếm người nào lại không một lần đến thăm lăng mộ các Hoàng đế nhà Nguyễn.
    Hệ thống lăng tẩm ở Huế liền cùng sự thăng trầm của cái ngai rồng triều Nguyễn ( từ 1802 đến 1945). Đi qua 13 triều vua, nhưng bởi các lý do lịch sử phức tạp mà hiện nay chỉ còn 7 khu lăng mộ theo thứ tự thời gian từ trước đến nay: Lăng Gia Long (Thiên Thụ Lăng), Lăng Minh Mạng (Hiếu Lăng), Lăng Thiệu Trị (Xương Lăng), Lăng vua Tự Đức (Khiêm Lăng), Lăng Dục Đức (An Lăng), Lăng vua Đồng Khánh (Tư Lăng) và Lăng vua Khải Định (Ứng Lăng). Nếu như đứng từ vị trí trung tâm của Cố đô, 7 khu lăng mộ này đều nằm tại phía Tây của kinh đô Huế, nó là biểu trưng của “Thái dương Tây hạ” (Mặt Trời lặn phía Tây) – chỉ việc thăng hà của đấng Chí tôn.
    Theo quan điểm xưa “Thứ nhất dương cơ, thứ 2 âm phần”, việc xây đựng quan trọng sau cung điện là lăng mộ. trong khoảng thời Lý về trước, lăng mộ của các vua rất đơn giản, nay chỉ còn vết tích ít ỏi. trong khoảng đời è, Lê về sau, mỗi vua sở hữu 1 lăng riêng, nhưng tẩm thì thờ chung. đến thời Nguyễn, quốc khố hưng vượng vượng, các vua mới mang lăng tẩm mộ lớn thờ riêng từng người.
    Thuật phong thủy là yếu tố phải tuân thủ triệt để trong kiến trúc lăng mộ Huế. với quan niệm “Tức vị trị lăng”, ngay khi tại vị, vua đã cho tiến hành khảo sát địa thế, lập đồ án xây dựng lăng tẩm cho mình. các quan ở Khâm Thiên Giám, bộ Lễ, bộ Công đi tậu cuộc đất, ngày khởi công, trình đồ án kiến trúc cho vua ngự ưng chuẩn.
    Khu lăng mộ nào cũng chia thành hai thành phần chính: lăng và tẩm. Phần lăng chính là nơi an táng thi thể vua; phần tẩm là hành cung nơi vua thực hiện công việc, sinh hoạt, giải trí, kiến trúc theo kiểu như hoàng cung. Vua ngự giá tới đây để giải trí, ngắm cảnh, đọc thơ, nhìn ngắm sinh phần của bản thân mà ý thức rằng dương thế tạm thời, đời con người nhanh qua như giấc mơ.
    Với quan niệm “Sống gửi thác về”, lăng mộ là hoàng cung vĩnh hằng của các vị vua. Bởi vậy trong phần nhiều các lăng tẩm đều trang trí vô số hoa văn những chữ “thọ”, “hỷ”, hình ảnh sông núi thân quen, các bức họa sinh động để không có cảm giác chết chóc, nặng nề
    Ngoài sông, núi, khe, hồ của khi không là lầu, đài, đình, tạ hoặc đắp thêm núi đất khiến cho án, chẩm; hoặc đào thêm hào, khe khiến cho huyền thủy… hình thành nên các tòa lăng mộ sở hữu kiến trúc đặc sắc, cảnh quan kết hợp, hùng vĩ mà thơ mộng. gần như các lăng đều nằm trên Những đồi cỏ xanh mướt với những cây thông xanh, cổ thụ um tùm tỏa bóng xuống mặt hồ im ắng.
    Nhìn xung quanh không gian to lớn mới thấy hết vẻ hoành tráng của các lăng tẩm và mối liên hệ với những vật thể địa lý xa tới hang chục cây số.
    Lăng vua Gia Long với diện tích gần 20ha, nằm phía trên ngọn núi Thiên Thụ, với ngọn núi án chính là Đại Thiên Thụ, xung quanh có 36 ngọn núi chầu vào. Lăng tẩm này do thầy phong thủy Lê Duy Thanh khám phá ra địa cuộc. Chính vua Gia Long đích thân cưỡi voi đi dò la trước khi thông qua. Lăng vua Minh Mạng rộng chừng 15ha, toạ lạc ở trên ngọn núi Cẩm Kê (Hiếu Sơn), với núi Kim Phụng chầu, toàn lăng tẩm như một người đang nằm gối lên đồi cao, chân tay duỗi ra phía ngã ba sông.
    Lăng vua Gia Long hay còn gọi là Thiên Thọ Lăng, khởi đầu được xây dựng trong khoảng năm 1814 và tới năm 1820 mới hoàn tất. Lăng thật ra là một quần thể rát nhiều lăng mộ trong hoàng quyến. Phần lớn khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi, núi lớn nhỏ, trong số này có Đại Thiên Thọ là ngọn núi lớn nhất đã được chọn làm tiền án của lăng và cũng là tên gọi của quần sơn này.
    Lăng vua Minh Mạng hay còn được gọi là Hiếu Lăng vì vị vua Thiệu Trị cho vun đắp từ năm 1840 tới năm 1843 để chôn cất cho vua cha Minh Mạng. Lăng này toạ lạc ở trên ngọn núi Cẩm Khê, gần ngã ba Bằng Lãng chính là nơi tụ hội của hai dòng Hữu Trạch và Tả Trạch tạo nên sông Hương, cách kinh thành Huế 12 km.

    Lăng Thiệu Trị hay còn gọi là Xương Lăng, toa lạc ở địa phận thôn Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy. Lăng được vua Tự Đức cho vun đắp vào năm 1847 để an táng vua cha Thiệu Trị. Nếu đem so với lăng mộ các vua tiền nhiệm và kế vị, lăng Thiệu Trị sở hữu các vẻ riêng. Đây là lăng độc nhất vô nhị quay mặt sang hướng Tây Bắc, một hướng ít được dùng trong kiến trúc cung điện và lăng mộ thời Nguyễn.

    Lăng Tự Đức còn gọi là Khiêm Lăng, được đích thân vua Tự Đức cho vun đắp khi còn trị vì, là một quần thể dự án kiến trúc trong đó có nơi mai táng vua, tọa lạc trong một thung lũng khá hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh cũ, nay chính là thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Lúc mới vun đắp, lăng này mang tên là Vạn Niên Cơ, sau cuộc nổi loạn Chày Vôi, Tự Đức liền đổi tên thành Khiêm Cung. Sau khi Tự Đức mất, lăng này được đổi tên lại là Khiêm Lăng. Lăng sở hữu kiến trúc cầu kỳ, cảnh sức sơn thủy hữu tình và cũng là một trong những lăng tẩm hấp dẫn nhất của thời vua chúa nhà Nguyễn.

    Lăng vua Đồng Khánh còn được gọi là Tư Lăng, ngự giữa một vùng quê thuộc làng Cư Sĩ, xã Dương Xuân (hiện nay là thôn Thượng 2, huyện Thủy Xuân, thành phố Huế). Lăng này trước đây là điện Truy Tư được vua Đồng Khánh xây dựng để thờ cha mình là Kiên Thái Vương. Lúc vua Đồng Khánh lâm bệnh và đột ngột từ trần, vua Thành Thái (1889-1907) kế vị trong bối cảnh quốc gia gặp rất nhiều khó khăn, kinh tế suy thoái nên không thể xây cất lăng mộ quy mô cho vua tiền nhiệm, phải lấy điện truy Tư đổi làm Ngưng Hy để thờ vua Đồng Khánh.

    Lăng vua Dục Đức tên tự An Lăng, tọa lạc ở thôn Tây Nhất, làng An Cựu, phường An Cựu, thành phố Huế; cách trung tâm kinh thành chưa đến 2km. Đây là nơi mai táng của ba ông vua nhà Nguyễn: Dục Đức, Thành Thái, Duy Tân. Dục Đức lên trị vì năm 1883 được 3 ngày thì bị truất phế và băng hà, về sau con ông là vua Thành Thái (lên ngôi năm 1889) cho xây dựng lăng để thờ cúng cha và đặt tên là An Lăng. Năm 1954, lúc vua Thành Thái qua đời, thi thể được đưa về chôn cất tại địa điểm hiện tại trong khu vực An Lăng và cũng được thờ ở ngôi điện Long Ân. Năm 1987, thi hài Duy Tân được mang về an táng cạnh lăng Thành Thái.

    Lăng Khải Định hay còn gọi là Ứng Lăng, nằm trên triền núi Châu Chữ (hay còn gọi là Châu Ê) bên ngoài kinh thành Huế là lăng mộ của vua Khải Định, là vị vua thứ 12 của triều đại nhà Nguyễn. Lăng được vun đắp trong khoảng năm 1920 ngay sau lúc Khải Định lên ngôi. Nói về lối kiến trúc lăng Khải Định hay được người đời sau thường đặt ra ngoài mẫu kiến trúc truyền thống thời Nguyễn bởi vì sự pha trộn kiến trúc Đông Tây lạ lùng, cùng các tác phẩm nghệ thuật ghép tranh sành sứ độc đáo.

    Với các chia sẻ kể trên hy vọng bạn sẻ có được những cái nhìn tổng quan về các lăng tẩm ở thành phố Huế.
     

    Nguồn: chuanmen.edu.vn
  2. baoanhcute
    Offline

    baoanhcute admin

    Lăng Khải Định hay còn gọi là Ứng Lăng, nằm trên triền núi Châu Chữ (hay còn gọi là Châu Ê) bên ngoài kinh thành Huế là lăng mộ của vua Khải Định, là vị vua thứ 12 của triều đại nhà Nguyễn. Lăng được vun đắp trong khoảng năm 1920 ngay sau lúc Khải Định lên ngôi. Đền đài kiến trúc xưa được chạm khắc tỉ mỉ, mạng đậm bản sắc dân tộc việt
     

    Nguồn: chuanmen.edu.vn

Chia sẻ trang này